Cập nhật: ngày 25/05/2015
Hàn Quốc nằm ở phần phía nam bán đảo Triều Tiên thuộc khu vực Đông Bắc Á. Diện tích 99.392 km2 (toàn bán đảo: 222.154 km2). Địa hình phân chia thành hai vùng rõ rệt: vùng rừng núi chiếm khoảng 70% diện tích nằm ở phía đông; vùng đồng bằng duyên hải ở phía tây và nam.Dân số Hàn quốc tinh đến tháng 2 /2013 là 50,76 triệu người.
Vào đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, Hàn Quốc là một nước nghèo, GDP bình quân đầu người chỉ có 85 USD, không đủ lương thực và phần lớn người dân không đủ ăn. Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp với tình trạng hạn hán và lũ lụt thường xuyên xảy ra. Nhưng nền kinh tế Hàn Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng, trở thành một trong 4 con rồng ở Châu Á.
Mặc dù Hàn Quốc tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp muộn, nhưng tốc độ cơ giới hóa nông nghiệp phát triển khá nhanh..Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp Hàn Quốc có thể chia làm 3 thời kỳ:
– Từ 1960 đến 1970: là thời kỳ khởi đầu, chủ yếu cơ giới hoá khâu làm đất.
– Từ 1971 đến 1980: là thời kỳ mở rộng cơ giới hoá các khâu thông dụng, phát triển các máy kéo tay, máy bơm nước, máy đập lúa.
– Từ 1981 đến nay: là thời kỳ phát triển cơ giới hoá đồng bộ các khâu, ngoài cơ giới hoá sản xuất lúa, còn cây ăn quả, rau màu, chăn nuôi, làm vườn v…v…
Trước năm 1960, sản xuất nông nghiệp Hàn Quốc chủ yếu dựa vào sức người và sức súc vật. Vào những năm 1970 và 1980, phong trào di dân tự do từ nông thôn ra thành thị đã gây ra tình trạng thiếu lao động nông nghiệp một cách nghiêm trọng, tiền công lao động ở nông thôn tăng lên rất cao. Những thay đổi này đòi hỏi phải ứng dụng máy móc thay cho lao động thủ công, nhất là vào thời vụ khẩn trương. Đầu những năm 1970, máy kéo tay và các thiết bị kèm theo được nông dân tiếp thu. Cuối những năm 1970 máy cấy, máy gặt đập liên hợp được phổ biến. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, đã có khoảng 30% công việc sản xuất lúa được làm bằng cơ giới. Đến những năm 90, hầu như toàn bộ công việc canh tác lúa đã được cơ giới hoá. Theo thống kê đến năm 2006, cơ giới hóa khâu làm đất 99%, cấy 98%, phun thuôc bảo vệ thực vật 100%, thu hoạch 99%, sấy 53% (bảng 1 và 2).
Bảng 1. Mức độ cơ giới hoá sản xuất lúa (%)
Trung bình | Làm đất | Cấy | Phun thuốc | Thu hoạch | Sấy | |
1990 | 84 | 78 | 93 | 72 | 15 | |
1992 | 75 | 91 | 89 | 92 | 84 | 18 |
1994 | 80 | 96 | 93 | 94 | 91 | 26 |
1996 | 85 | 98 | 97 | 98 | 96 | 34 |
1998 | 86 | 100 | 97 | 99 | 94 | 39 |
2000 | 87 | 100 | 98 | 99 | 98 | 42 |
2002 | 89 | 99 | 98 | 100 | 99 | 49 |
2004 | 90 | 99 | 98 | 100 | 99 | 53 |
2006 | 90 | 99 | 98 | 100 | 99 | 53 |
Nguồn: Agricultural Machinery Yearbook Republic Korea – 2007
So với các nước tiên tiến khác, Hàn Quốc là nước bắt đầu cơ giới hoá nông nghiệp muộn, nhưng đã có những bước phát triển nhanh chóng và vững chắc. Sở dĩ như vậy là do Chính phủ Hàn Quốc đã hoạch định được chiến lược đúng đắn và có những chính sách phù hợp.
Bảng 2. Số lượng máy nông nghiệp
Số TT | Loại máy | 1985 | 1990 | 1995 | 2000 | 2005 | 2006 |
1 | Máy kéo tay | 588.962 | 751.236 | 868.870 | 939.219 | 819.684 | 802662 |
2 | Máy kéo 4 bánh | 12.389 | 41.203 | 100.412 | 191.631 | 227.873 | 236.707 |
3 | Máy xới | 50.699 | 239.496 | 378.814 | 392.505 | 399.226 | |
4 | Máy cấy | 42.138 | 138.405 | 248.009 | 341.978 | 332393 | 325.351 |
5 | Máy gặt đập liên hợp | 11.667 | 43.594 | 72.268 | 8.982 | 86.825 | 86.492 |
6 | Máy đóng kiện(bó) rơm | 25.538 | 55.575 | 66.960 | 72.315 | 60.008 | 57.343 |
7 | Máy gặt lúa | 7.212 | 11.723 | 13.557 | |||
8 | Máy đập lúa | 301.717 | 266.608 | 121.970 | 58.766 | ||
9 | Thiết bị phun thuốc bảo vệ thực vật | 517.530 | 695.364 | 712.882 | 628.946 | 143.426 | 156.470 |
10 | Máy bơm nước | 286.298 | 341.548 | 384.900 | 292.871 | ||
11 | Máy sấy ngũ cốc | 3.526 | 12.116 | 28.406 | 55.573 | 70.363 | 73.205 |
12 | Máy sấy nông sản | 1.911 | 65.087 | 117.875 | 164.532 | 184.097 | 188.668 |
Nguồn: Agricultural Machinery Yearbook Republic Korea – 2007
Vào đầu năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc công bố bản đề án cơ giới hoá nông nghiệp. Năm 1978, ban hành nhiều đạo luật như: Luật thúc đẩy cơ giới hoá nông nghiệp, luật xử lý đặc biệt, luật quy định về việc giảm thuế giá trị gia tăng, luật giao thông đường bộ… Đồng thời thành lập Liên đoàn Hợp tác xã nông nghiệp Quốc gia (NACF) và Hiệp hội Ngành máy nông nghiệp Hàn Quốc (KAMICO). Hai tổ chức này đóng vai trò hàng đầu trong việc phân phối máy nông nghiệp trong phạm vi toàn quốc với sự hỗ trợ của chính phủ. Để khuyến khích cơ giới hoá nông nghiệp, nông dân mua máy móc và các doanh nghiệp chế tạo máy đều được hưởng chính sách vay ưu đãi. Từ năm 1998 trở về trước, nông dân mua máy được hỗ trợ tới 50% giá máy. Nông dân chỉ phải trả 10 – 15%, số còn lại được vay từ ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Sau năm 1998, việc hỗ trợ giá mua huỷ bỏ nhưng phạm vi và khoản vay ưu đãi được tăng lên. Người nông dân mua máy chỉ trả 20 – 30%, số còn lại được vay ngân hàng và được thế chấp bằng đất canh tác và trả hết vốn vay trong thời gian 5-8 năm với mức lãi suất 4 – 5%/năm, thấp hơn nhiều so với các ngành phi nông nghiệp khác.
Ngoài việc hỗ trợ mua máy, Chính phủ còn cung cấp một số loại dầu miễn thuế để sử dụng trong nông nghiệp. Từ năm 1989 trở đi, các loại vật tư nông nghiệp như: phân bón, máy nông nghiệp, hóa chất nông nghiệp được miễn thuế giá trị gia tăng. Chính phủ cũng hỗ trợ cho việc đào tạo, huấn luyện nông dân về kỹ thuật sử dụng, bảo dưỡng máy nông nghiệp. Nông dân đến học, được cung cấp miễn phí các khoản: ăn. ở, quần áo và đồ dùng học tập
Để việc sử dụng máy móc một cách hiệu quả, Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện để nông dân tham gia Hợp tác xã với các tổ chức khác nhau. Đầu năm 1980, Chính phủ thành lập một hệ thống hợp tác xã sử dụng máy nông nghiệp. Ở mỗi tỉnh thành lập Tổ hợp cơ giới hóa nông nghiệp tổng hợp (IFMC) . Về công nghệ sau thu hoạch, Chính phủ đã hỗ trợ để xây dựng và đưa vào hoạt động 324 tổ hợp chế biến lúa gạo (RPC), 367 trung tâm chế biến lúa gạo quy mô lớn, gồm hệ thống silo bảo quản và dây chuyền xay xát gạo.
Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm đến công tác nghiên cứu. Năm 1962, Viện Cơ điện nông nghiệp và Sử dụng được thành lập trực thuộc Cục quản lý Phát triển nông thôn (RDA) để tiến hành nghiên cứu tổng thể phát triển và cải tiến máy móc nông nghiệp, cơ giới hóa các công việc sau thu hoạch, và sử dụng máy móc. Ngoài ra còn có sự tham gia nghiên cứu của 17 trường Đại học và nhiều cơ quan nghiên cứu thuộc các doanh nghiệp. Sự đóng góp của các cơ quan nghiên cứu vào sự nghiệp cơ giới hoá nông nghiệp Hàn Quốc là rất to lớn.
Nhờ ứng dụng công nghệ cơ giới hóa gieo cấy và sử dụng có hiệu quả các máy gặt đập liên hợp mà chi phí lao động giảm từ 297 h/ha trong năm 2001 xuống còn 180 h/ ha trong năm 2010. Áp dụng các biện pháp sản xuất lúa chất lượng cao với chi phí thấp đã đem lại kết quả là sản xuất lúa chất lượng cao tăng từ 50% năm 2002 lên 80% vào năm 2005. Việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học giảm 30% trong năm 2004.
Các nhà khoa học Hàn Quốc cũng nghiên cứu phát triển một hệ thống máy làm đất kết hợp với gieo, cấy, bón phân, rắc thuốc diệt cỏ. Với hệ thống máy này, sẽ tiết kiệm được lao động, tránh đi lại nhiều lần trên ruộng làm cấu tượng đất bị phá hoại đồng thời bảo vệ được các nhóm sinh vật có lợi trong đất.
Để ngăn chặn cỏ dại phát triển và hạn chế ô nhiễm môi trường do thuốc diệt cỏ, các nhà khoa học Hàn Quốc đã tiến hành nghiên cứu công nghệ phủ lớp giấy, đồng thời thực hiện gieo sạ trực tiếp và kiểm soát sâu bệnh bằng máy bay trực thăng cỡ nhỏ không người lái. Để cạnh tranh được với các nước khác về sử dụng lao động trong nông nghiệp, công nghệ tự động hóa được ứng dụng và trong tương lai sẽ sử dụng robot với trí thông minh nhân tạo. Một nghiên cứu đã được tiến hành để cải thiện chất lượng gạo xay xát bằng cách cải tiến các máy xay xát gạo và giảm tỷ lệ gạo gẫy. Người ta cũng nghiên cứu loại máy sấy liên hợp sử dụng tia hồng ngoại và khí nóng để cải thiện hương vị gạo, giảm chi phí năng lượng và thời gian sấy so với loại máy sây bằng khí nóng hiện đang sử dụng. Để định lượng các yếu tố chất lượng gạo, người ta hình thành một hệ thống đo lường tự động và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng.
Về ngành công nghiệp chế tạo máy nông nghiệp, Hàn Quốc đã thành công nhờ có chính sách, chiến lược và bước đi đúng đắn. Đó là việc thực hiện liên doanh chế tạo trong một thời gian với các nước Mỹ, Italia, Nhật Bản. Cho đến cuối những năm 1970 đã chế tạo được trong nước 100% các loại máy đơn giản như: máy kéo tay, máy bơm nước, bơm thuốc trừ sâu, tuốt đập, xay xát và chấm dứt liên doanh. Các máy phức tạp còn lại như máy kéo 4 bánh, máy gặt đập liên hợp, máy đóng kiện…thì đến năm 1986 công nghiệp trong nước cũng chế tạo được hoàn toàn. Các máy nông nghiệp do Hàn Quốc chế tạo chẳng những đáp ứng được yêu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước.
Ks.Hà Đức Hồ
Phó tổng thư ký – Hội cơ khí nông nghiệp Việt Nam
Tài liệu tham khảo:
– Developing agricultural mechanization technology in paddy fields in Korea. (Lee DongHyeo)
– A brief history of agricultural mechanization in Korea www.tractor8.com
– Small farm equipment for developing countrries – Proceeding of the International conference on small farm equipment for developing countries: Past experience and future priorities 2-6. September 1986